Mạn đàm “Tết” năm mới của người Raglai

VHO- Người Raglai sinh sống ở vùng núi cao kéo dài từ miền tây tỉnh Khánh Hòa qua vùng núi phía tây tỉnh Ninh Thuận và Bình thuận, tập trung đông nhất ở tỉnh Ninh Thuận (khoảng 55.000) trong tổng số hơn 95.000 người Raglai ở Việt Nam – số liệu 2019. Dân số Raglai đứng hàng thứ tư trong số năm dân tộc thuộc nhóm ngữ hệ Nam đảo (Malayo-polinesien) và hàng thứ 21 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em ở Việt Nam.

Mạn đàm “Tết” năm mới của người Raglai - Anh 1

Già làng cùng dân làng người Raglai cúng Lễ ăn lúa mới  Ảnh: Việt Quốc 

 

Do điều kiện sinh sống và các yếu tố giao lưu, giao thoa văn hóa, người Raglai có nhiều nét văn hóa tương đồng với văn hóa các dân tộc Tây nguyên, tiếp biến một phần không nhỏ văn hóa của người Chăm và người Kinh. Đặc biệt, những năm kháng chiến lâu dài, đồng cam cộng khổ với cách mạng, một mặt người Raglai tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa tiến bộ của các dân tộc khác, một mặt cũng khó có điều kiện khôi phục lại các lễ hội, phong tục tập quán truyền thống nên bị mai một khá nhiều.

Vào dịp năm mới, các dân tộc đều có Tết cổ truyền của mình. Đối với người Kinh là Tết Nguyên đán. Nhưng, sự chuyển từ mùa Đông sang mùa Xuân chỉ thấy rõ ở miền Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra), còn phía Nam, sự chuyển mùa không rõ rệt. Cũng chính vì vậy, người Kinh ở phía Nam đón Tết trong tình trạng không có “không khí” Tết (Anh ở trong này không có mùa Đông – lời bài hát Gửi nắng cho anh). Sự chuyển mùa ở các tỉnh phía Nam không phải vào tháng Giêng âm lịch mà thường là vào tháng Tư dương lịch, là thời điểm chuyển từ mùa khô sang mùa mưa.

Có lẽ vì vậy, người Raglai không có “Tết”. Đã từ lâu lắm rồi, trong khi  các dân tộc khác vui vẻ đón Tết thì bà con Raglai vẫn lên rẫy như không có chuyện gì xảy ra. Đến năm 2001, thấy tình trạng người Raglai không có Tết, Tỉnh uỷ Ninh Thuận đã có công văn chỉ đạo tổ chức cho bà con Raglai ăn Tết Nguyên đán như người Kinh. Vậy trong quá khứ, người Raglai có “Tết năm mới” hay lễ hội đón năm mới hay không?

Để đi tìm “Tết” năm mới của người Raglai, trước hết cần xem xét các yếu tố về lịch pháp và thời tiết. Lễ hội đầu năm hay Tết năm mới là sự “Tống cựu nghênh tân”, là sự tiễn biệt năm cũ, đón năm mới đến và vì vậy, nó được căn cứ theo lịch pháp của mỗi dân tộc. Các dân tộc ở phương Tây căn cứ vào dương lịch để tính thời gian và họ đón năm mới vào ngày 1 tháng 1 (ta gọi là “Tết Tây”). Đa số các dân tộc ở phương Đông tính lịch theo trăng (âm lịch). Hầu hết các dân tộc ở các nước Đông Nam Á đều chịu ảnh hưởng của lịch Saka của Ấn Độ, trong đó có các dân tộc Raglai. Một tháng theo lịch Sa ka cũng tính theo mặt trăng, còn năm thì tính theo các vì sao. Về thời tiết thì lúc này sao Rua (tua rua) xuất hiện và là lúc kết thúc mùa khô, chuẩn bị đón mùa mưa tới. Vào thời gian này, bà con thu hoạch lúa trên rẫy đưa vào kho chuẩn bị làm lễ “Mừng lúa mới” và cũng chuẩn bị rẫy cho mùa vụ mới. Đây cũng là thời điểm chuyển mùa nên có rất nhiều lễ hội nông nghiệp, là các lễ hội cầu đảo, cầu mưa, cầu các Thần linh liên quan đến nông nghiệp lúa nước như cúng Thần nông, cúng hồn lúa, bắp, cầu Thần sông, Thần suối, Thần cây, Thần núi… và thú dữ không về phá hoại mùa màng.

Không phải ngẫu nhiên mà các cư dân nông nghiệp Đông Nam Á lại có quan niệm về năm mới là lễ hội chuyển mùa, giống nhau về thời gian và các nghi lễ. Có thể kể ra đây một số lễ hội được coi là lễ hội chuyển mùa và đón năm mới của một số dân tộc ở Đông Nam Á như: Tết năm mới Soong Kran của người Thái ở Thái Lan, Tết năm mới Bun Pi May (hốt nậm) của Lào, Tết Chon Chnam Thmây của người Khmer và Tết Thagyamin của người Myanmar. Trong những lễ hội đầu năm của các dân tộc nói trên đều có nghi  lễ cầu mưa hoặc té nước, thậm chí có múa phồn thực để cầu sự sinh sôi nảy nở. Đặc biệt, thời gian các “Tết” năm mới của các dân tộc này đều trùng nhau vào thời điểm chuyển mùa (khoảng tháng Tư dương lịch) và cũng chính là thời gian bà con Raglai làm Lễ ăn lúa mới (Băng akok najai). Như vậy về mặt thời gian hay lịch nông nghiệp, Lễ ăn lúa mới của người Raglai trùng với Tết năm mới của các cư dân cận cư ở vùng Đông Nam  Á.

Về thời điểm và mục đích, người Raglai cũng quan niệm Lễ ăn lúa mới là lễ hội đầu năm. Khi tiếng sấm vang lên, người Raglai cho đó là tiếng sấm khai thông đất trời, là một sự chuyển mùa từ mùa khô qua mùa mưa, từ năm cũ qua năm mới, đất trời sẽ đầy mưa, mát mẻ, là sự đâm chồi nảy lộc, sinh sôi nảy nở của muôn vật, trong đó có các nông sản nuôi sống con người như lúa, bắp. Cũng như các lễ hội của các dân tộc khác, lễ ăn lúa mới cũng có phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm có lễ đổ nước vào ché rượu cần, lễ cúng chính, lễ cúng Thần lúa, bắp. Lễ vật bắt buộc phải có một con gà hay một con anu (lúi cúi) mà người Raglai quan niệm là con vật theo đất, 3 ché rượu cần, tục này đã trở thành thành ngữ: “Rượu cần 3 ché, 1 con thịt (thường là heo)”. Những đồ đạc như công cụ lao động, nhạc cụ được bày ra trên nhà sàn như chiết đựng y trang, đồ trang sức như xâu chuỗi, cườm, vòng đeo cổ, đeo tay, nhẫn, cà rá, ghè, ché, nồi đồng… và các nhạc cụ như mã la, chiêng, trống, đàn chapi, tarakel… để tế Thần linh. Ngày trước, tế lễ thường là các thầy cúng trong làng. Ngày nay, trong quá trình thực hiện phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, hầu hết ở các palei Raglai không còn thầy cúng nữa, thay vào đó là các già làng, trưởng tộc, trưởng bản, là những người cao tuổi, có uy tín trong cộng đồng. Người Raglai cũng như các cư dân nông nghiệp Đông Nam Á khác, đều cúng hồn lúa, hồn bắp, quan niệm rằng lúa là con gái, bắp là con trai. Các lời cầu khấn chủ yếu là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, làm rẫy nương thuận lợi. Cây lúa cho nhiều hạt, cây bắp cho trái đầy và cầu cúng cho palei yên bình, không dịch bệnh.

Phần hội gồm có lễ múa mừng Thần linh, hội múa sinh hoạt và hội hát dân gian gồm các nghệ nhân sử dụng khèn bầu, kèn môi, sáo ống, chiêng, trống, mã la v.v… Lễ ăn lúa mới có sức hút cộng đồng rất lớn. Mọi người cũng thăm hỏi, chúc tụng nhau những điều tốt đẹp nhất và bước vào một vụ lúa bắp mới, lễ có khi kéo dài cả tháng.

Qua tham khảo tư liệu khoa học và đi điền dã tìm hiểu một số bà con Raglai, có thể bước đầu nhận định Lễ ăn lúa mới của người Raglai hiện nay chính có nguồn gốc xa xưa  là “Tết” năm mới, không chỉ của riêng dân tộc Raglai mà của một số dân tộc Đông Nam Á khác như Thái Lan, Lào, Khmer, Myanmar và ngay cả đối với dân tộc gần gũi nhất là người Chăm. Để nghiên cứu Lễ ăn lúa mới và khôi phục nó trở thành một cái “Tết” năm mới cho dân tộc Raglai hay không là cả một vấn đề lớn. Trước mắt, với sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ Ninh Thuận, cần làm sao tổ chức cho bà con ăn Tết Nguyên đán và đón một năm mới vui tươi, phấn khởi, hạnh phúc vì cũng đã hàng bao chục năm nay, bà con Raglai đã gắn bó với cách mạng và đã tiếp biến nhiều giá trị văn hóa mới. Tuy nhiên, chính những lễ hội truyền thống của mỗi dân tộc đều chứa đựng rất nhiều giá trị văn hóa quý báu mà không phải sưu tầm, nghiên cứu và hiểu được ngay những giá trị, và cũng chính những giá trị ấy đã khẳng định bản sắc văn hóa, tạo nên gương mặt riêng của mỗi một dân tộc. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chắt lọc tìm ra những luận cứ, luận chứng tham mưu cho các cấp lãnh đạo xây dựng những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn nhất. Về lâu dài, các ngành chức năng cần có các đề tài, dự án nghiên cứu và khôi phục lại Lễ hội ăn mừng lúa mới để trở thành một lễ hội xứng tầm với “Tết” cổ truyền của dân tộc Raglai.

PGS.TS Phan Quốc Anh

 

 

Ý kiến bạn đọc