Bạn chèo Tuyết Diêm

VHO- Trong Lễ hội Cầu ngư của vạn Tuyết Diêm (xã Bình Thuận, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) vào Rằm tháng Hai, lệ Tế xuân luôn có Chèo bả trạo. Nói đến Tuyết Diêm nhiều người nhớ đến câu ca: Tiếng đồn bạn nhạc Bàu Bèo/ Bạn gươm Mỹ Huệ, bạn chèo Tuyết Diêm.

Bạn chèo Tuyết Diêm - Anh 1

Thuyền ngư dân trong vịnh Dung Quất

Sóng gió Tuyết Diêm

Tuyết Diêm nằm ở vùng “sừng” của huyện Bình Sơn nhô ra biển, là chỗ nhọn nhất của cái “sừng”, kiên gan che chắn sóng gió ở bờ đông vịnh Dung Quất. Làng chài hình thành năm, sáu trăm năm trước, xưa vốn có tên Hoa Diêm. Năm vua Thiệu Trị lên ngôi (1841), chữ Hoa bị phạm húy, phải đổi thành chữ Tuyết. Hoa Diêm cũng như Tuyết Diêm đều có nghĩa là muối trắng tinh khiết (như hoa, như tuyết), vì thực tế nơi đây có đồng muối, bản đồ chữ Hán Đồng Khánh địa dư chí có ghi “Tuyết Diêm sản diêm” (làng Tuyết Diêm sản xuất muối). Muối được người Tuyết Diêm làm nghề sinh sống từ nhiều đời, cho đến thập niên cuối thế kỷ XX thì chấm dứt. Ghi dấu vào địa danh, nhưng nghề làm muối không phải duy nhất trong cuộc mưu sinh dài lâu của người Tuyết Diêm.

Địa bạ ghi nhận, làng Tuyết Diêm năm 1813 có 113 mẫu ta ruộng đất, nghĩa là có nhiều người sống bằng nghề nông. Người Tuyết Diêm xưa cũng có người sống bằng nghề “chạy chợ”, làm “nậu rỗi” gánh cá đi bán ở các làng quê, dùng ghe chèo ngược sông Trà Bồng lên chợ Hôm, chợ Châu Ổ, chợ Thạch An để bán cá, mắm, muối, rồi mua về lúa gạo, than củi, trầu cau. Nhưng dấu ấn đậm nhất của dân Tuyết Diêm là nghề buôn ghe bầu và đánh cá. Buôn ghe bầu ra Bắc vào Nam bằng đường biển rất thịnh xưa kia, nhất là khi trục Quốc lộ 1 chưa xây dựng, đầy trắc trở và đường sắt cũng chưa có.

Ở làng Tuyết Diêm thuở ấy có nhiều người thuê thợ về đóng ghe bầu để trực tiếp lái ghe đi buôn, như ông Tào, ông Quỳ. Người buôn ghe bầu thường bán muối của Tuyết Diêm, đường của Bình Sơn, rồi mua về lúa ở Nam Bộ, lá đệm, dây mây ở Cà Ná (để làm buồm, làm dây chằng ghe). Nghề cá thu hút nhiều người nhất. Tùy điều kiện mà đánh cá, có thể trong lộng hoặc ngoài khơi. Trong lộng đi về trong ngày; đi khơi thường ở hướng đông đảo Lý Sơn chừng 40-50 hải lý và xa hơn nữa, đến khu vực quần đảo Hoàng Sa, ở ngoài biển dài ngày. Những người có chí phiêu lưu còn đi vào vùng biển Phan Thiết, Cà Ná làm lưới cao để đánh bắt. Ngư dân các tỉnh Bình Định, Phú Yên cũng thường vào biển Phan Thiết đánh bắt cá, nhưng mỗi địa phương có ưu thế đánh bắt khác nhau, cùng góp cho vùng mắm, cá Phan Thiết trở nên phồn thịnh, ngư dân cũng có thu nhâp cao hơn so với ở quê.

Theo các cụ cao niên, thì vào thời các cụ có khoảng 20 đôi ghe nan (ghe 3 buồm 6 chèo) hằng năm vào vùng biển Phan Thiết đánh bắt, mỗi chiếc ghe có 7, 8 ngư dân. Cá đầy khoang thì vào bờ bán cho nậu, nghỉ ngơi xong lại ra biển đánh tiếp. Mỗi năm ngư cuộc đi kéo dài đến bốn năm tháng mới quay về thăm quê. Mãn mùa thì ghe để lại ở Phan Thiết nhờ người trông hộ, bạn chài lên đường Thiên lý đi xe ngựa về quê, sau khi quốc lộ 1 và đường sắt xây xong (khoảng 1935) thì đi bằng xe hơi, tàu hỏa. Cuộc mưu sinh khi xưa chứa đầy hiểm họa. Các cụ cao niên ở Tuyết Diêm đều nhắc đến bài ca hải trình mà các cụ gọi là “nhật trình”. Các cụ bảo tác giả của bài ca là một nhà Nho đi thi không đỗ, bèn sắm ghe bầu đi buôn vào Nam ra Bắc, rồi qua thực tế mà sáng tác bài này và lưu truyền để người đi biển sử dụng. Mối hiểm nguy trên biển thì có nhiều, không kể xiết, như khi đi qua đoạn biển có đá Vọng Phu (Phù Cát, Bình Định), các tay chèo phải vái bà Vọng Phu:

Lạy Bà, Bà nổi gió đông,

Để ghe tôi qua trước, ghe chồng Bà qua sau!

Còn khi qua mũi Đậy, mũi Dinh (Phú Yên, Ninh Thuận) hao tổn nhiều sức:

Mũi Dinh chín bị còn ba,

Mũi Đậy bảy bị không tha bị nào.

Bị là bao gạo. Có khi gạo ăn hết mà không qua được quãng biển đầy sóng gió, ghe phải tấp vào bờ tìm chỗ nghỉ đôi ba ngày, đợi khi biển êm mới chèo qua. Mối hiểm họa chực chờ trên biển luôn là lý do để ngư dân Tuyết Diêm, cũng như ngư dân nhiều nơi khác, tin vào thần thánh và cầu thần thánh phù trợ.

Bạn chèo Tuyết Diêm - Anh 2

 

Ngư dân vạn Tuyết Diêm, xã Bình Thuận (Bình Sơn) làm lễ rước thần

Lăng vạn, lễ Cầu ngư, Chèo bả trạo

Cũng như nhiều làng vạn khác, vạn Tuyết Diêm có tín ngưỡng thờ Cá Ông phù trợ cho dân chài, đã xây lăng vạn thờ Cá Ông từ lâu đời, có 4 cốt Cá Ông. Thời kháng chiến chống Pháp, quân Pháp bắn phá khiến lăng bị hư, dân đã sửa lại; đến kháng chiến chống Mỹ, bom Mỹ đánh sập lăng, dân ly tán, nhưng tín ngưỡng đã ăn sâu trong đời sống tâm linh, nên đến sau năm 1975 lăng được xây dựng lại.

Rằm tháng Hai là ngày Tế xuân, còn gọi lễ Cầu ngư, mở đầu cho dân vạn khởi sự đi đánh bắt trong năm. Lệ thu diễn ra vào rằm tháng Tám mãn mùa cá. Ngư dân ở đâu cũng phải về dự lễ tế.

Lăng vạn Tuyết Diêm có mặt tiền phía Tây nhìn ra vịnh Dung Quất rộng, phía Đông là biển cả, cái “cổ cò” Tuyết Diêm lộng gió biển khơi. Nhưng nay nhịp sống, bầu không khí đã khác xưa rất nhiều. Tháng Hai trời biển trong xanh. Dọc bờ vịnh vươn lên nhiều cần cẩu, các tàu lớn neo đậu, đường dẫn đến cảng xe tải chở hàng chạy rầm rập suốt ngày đêm. Nơi lăng vạn vẫn là góc khuất thiêng liêng. Mặc không khí hối hả ngoài kia, trong này có phần yên ắng, dân vạn kẻ dọn bàn thờ, người lo lễ vật, phụ nữ lo nấu nướng. Ba giờ chiều, lễ Nghinh Ông bắt đầu. Khám thờ được rước lên đặt ở mui chiếc thuyền lễ nằm trong vịnh, các bô lão lo việc tế tự của vạn mặc áo dài lễ, đội bả trạo cũng đã lên thuyền. Thuyền chạy hướng về cửa vịnh, đi hai bên chầu hầu là hai chiếc thuyền đua nhỏ, dài với các tay chèo đang chèo tay. Ra đến cửa vịnh, chủ lễ cúng vái rước thần lên kiệu về lăng. Trên đường rước, đội bả trạo liên tục hát múa chầu thần. Người ta không quên rải vàng mã, ném gạo muối trên biển cho các cô hồn cát đẳng. Tại lăng, các bô lão mặc lễ phục đang đón, ban nhạc lễ sẵn sàng cúng thần.

Bạn chèo Tuyết Diêm - Anh 3

Ngư dân vạn Tuyết Diêm, xã Bình Thuận (Bình Sơn) hát Bả trạo tại lễ hội Cầu ngư

Kế đến là lễ an vị và nhập điện, mọi người tụ tập trước lăng, các bô lão mặc áo dài lễ đứng hai bên, đôi chinh nhỏ khởi tiếng, kế tiếp là đôi trống nhỏ khởi động, đến khúc nhạc lễ hầu thần, sau đến trống lớn, chiêng lớn ở ngoài sân nổi lên vang động. Sau khi rót rượu, các bô lão đến bái lạy, đọc chúc văn, mọi người trong ngoài cung kính cúng thần. Sẩm tối, lễ cúng “cô bác” (các vong linh) được tổ chức trước sân lăng, lễ vật gồm một con heo, thịt chín và thịt sống bày biện trên bàn lễ. Các bô lão lại tiếp tục rót rượu, khởi chiêng trống, bái lạy các đấng siêu linh, đọc văn cúng. Tiếng chiêng trống, nhạc lễ lại vang ngân giữa không khí về đêm đã trầm lắng lại. Sáng ngày hôm sau là chính lễ. Mọi người trong vạn chài tập trung đông đủ về lăng vạn. Lễ vật gồm một con heo được bày biện trên bàn lễ. Các nghi thức cúng tế khởi chinh, rót rượu, đọc chúc văn được tiến hành nghiêm cẩn. Sau lễ cúng, với sự chứng kiến của tất cả mọi người, ở ngoài sân đội chèo trong trang phục diễn tấu đã sẵn sàng.

Đội chèo đứng theo hình chiếc thuyền, hàng giữa có tổng mũi, tổng lái, tổng thương, hai hàng hai bên là các tay chèo như hàng ngũ trên một chiếc ghe, hướng vào lăng hát múa hầu thần. Với sự dẫn dắt, hát múa của các nghệ nhân Nguyễn Văn Thu, Nguyễn Văn Thực (Nghệ nhân Ưu tú) và tiếng trống, tiếng nhạc, đội chèo Tuyết Diêm diễn các cảnh đánh bắt trên biển khơi, cầu thần phù hộ vượt qua sóng dữ và cuộc sống an lành, tôm cá đầy khoang. Để hầu thần và phục vụ bà con ngư dân, vạn còn tổ chức hội đua thuyền ở quãng nước trước lăng, trong vịnh Dung Quất. Các chiếc thuyền đua dài từ lăng thờ được hạ thủy, các tay đua với bộ y phục đua thuyền thi nhau bơi đua, trong tiếng trống giục và bà con đứng trong bờ cổ vũ. Kết thúc lễ Cầu ngư, tất cả mọi người cùng dự tiệc cúng, ăn uống vui vẻ và tâm sự với nhau về những suy nghĩ trong cuộc sống.

Lễ hội Cầu ngư ở lăng vạn Tuyết Diêm đã hình thành nhiều trăm năm trước, là một lễ hội tiêu biểu cho các lễ hội tương tự ở các làng vạn khác vùng biển, diễn ra bài bản, nghiêm cẩn và độc đáo. Tôi đã nghe anh Thu, anh Thực diễn nhiều lần, nhưng lần này, trong không khí thiêng liêng ở lăng vạn, cảm xúc bỗng lâng lâng, tôi nghe như trong từng lời ca điệu múa thấm đẫm sóng gió, khát vọng của Tuyết Diêm nhiều trăm năm trước. Người Tuyết Diêm trong cuộc sống đầy sóng gió của mình không thể thiếu lệ cúng Cá Ông, không thể thiếu Chèo bả trạo hầu thần. Bạn chèo Tuyết Diêm nhờ cúng hầu thần nghiêm cẩn, rõ nét bài bản, đã khắc ghi trong lòng các vạn chài ven biển, trở thành một “thương hiệu” nghệ thuật vô giá: Bạn chèo Tuyết Diêm.

Bạn chèo Tuyết Diêm - Anh 4

Lễ cúng thần

Đôi điều băn khoăn

Xã Bình Thuận nói chung, thôn Tuyết Diêm nói riêng nằm trong vùng lõi của Khu kinh tế Dung Quất, có cảng Dung Quất. Nhân về dự lễ hội Cầu ngư, tôi đi một vòng quanh mũi Cổ Cò hiên ngang chắn ở bờ đông, thiên tạo nên vịnh Dung Quất. Từ mũi đất tự nhiên ấy, ngày nay, một bờ chắn sóng thẳng tắp được đắp ra. Quanh bờ vịnh nổi lên các cần cẩu. Trong vịnh các con tàu lớn đang neo đậu, bên cạnh các tàu ấy, thuyền cá của ngư dân trông mới nhỏ nhoi làm sao, dù là thuyền có công suất lớn. Công nghiệp phát triển, nhưng làm sao để không “va chạm” với ngư nghiệp vốn có ở nơi đây từ nhiều trăm năm trước, hẳn đã khiến những người trong cuộc phải đau đầu. Lại còn phải làm sao bảo tồn các di tích và di sản phi vật thể như lễ Cầu ngư?

Tôi ngồi hàn huyên ở sân lăng vạn chài Tuyết Diêm 2 cùng các lão ngư và nghệ nhân, bỗng thấy thương cảm với niềm băn khoăn của ngư dân. Các lão ngư bảo, xưa kia, sau Lệ thu Rằm tháng Tám, ngư dân không thể ra khơi đánh bắt vì sóng to gió lớn, thì cứ đánh bắt trong vịnh Dung Quất cho đến Lệ xuân, ngót nghét 5, 6 tháng. Hồi đó cá trong vịnh rất nhiều, như cá liệt, cá cơm, cá tè be, có thể giúp ngư dân mưu sinh suốt mùa mưa gió. Nay do tác động của công nghiệp, cá tôm trong vịnh không còn. Việc mở rộng các không gian công nghiệp cũng khiến cơ sở thờ tự, các giá trị di sản cổ truyền quý báu hình thành từ nhiều trăm năm trước, lễ Cầu ngư, Chèo bả trạo sẽ tiếp diễn ra sao? Dưới tác động của công nghệ mới và công nghiệp, một số người trẻ tuổi Tuyết Diêm không khỏi bị phân tâm, thiếu chú ý học hỏi, tham gia vào hoạt động văn hóa cổ truyền của bổn vạn, vậy di sản sẽ trao truyền thế nào? Nói tóm lại, các di sản văn hóa quý báu nơi đây cũng đang đứng trước nguy cơ mai một, cần sự quan tâm hơn nữa của chính quyền, tinh thần trách nhiệm của các doanh nghiệp cũng như sự nỗ lực tự thân của toàn thể ngư dân trong làng vạn.

CAO CHƯ

Ý kiến bạn đọc