Bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu: Lấp “khoảng trống” trong Luật

VHO- Từ năm 2009 đến nay, Việt Nam đã có 7 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh. Thế nhưng, thực tiễn cho thấy di sản tư liệu vẫn còn là vấn đề mới mẻ, hiện chưa được quy định trong Luật Di sản văn hóa cũng như tại bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam. “Khoảng trống” này trong thời gian tới đòi hỏi phải được lấp đầy.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản tư liệu: Lấp “khoảng trống” trong Luật - Anh 1

 Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ hai của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới của UNESCO

 Tài sản vô giá

Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL) cho biết, Việt Nam chính thức tham gia vào Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO từ năm 2007. Đến năm 2012, Ban Điều phối được nâng cấp thành Ủy ban quốc gia Chương trình Ký ức thế giới của Việt Nam. Từ năm 2009 đến nay, Việt Nam đã có 7 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, gồm 3 Di sản Tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long; 4 Di sản Tư liệu Khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm, Thơ văn trên Kiến trúc Cung đình Huế, Mộc bản trường Phúc Giang Hành trình đi sứ Trung Hoa.

Di sản tư liệu có vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền văn hóa đọc, nâng cao tinh thần ham học, giáo dục truyền thống lịch sử, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Di sản tư liệu góp phần quan trọng trong xác định và bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc, nghiên cứu tổ chức, bộ máy của triều đại phong kiến, thể hiện trên Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Hoàng Hoa sứ trình đồ - Hành trình đi sứ Trung Hoa.

Cục Di sản văn hóa nêu rõ, thực tiễn cho thấy, di sản tư liệu bên cạnh những thành quả có được thì còn là vấn đề mới mẻ, hiện chưa được quy định trong Luật Di sản văn hóa cũng như tại bất cứ văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam.

Thực tế cũng cho thấy, việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu chỉ thực sự triển khai nghiêm túc, quyết liệt sau khi di sản được ghi danh và được công bố rộng rãi giá trị tiêu biểu cho toàn xã hội. Việc xây dựng quy định pháp lý, quy trình cho hoạt động quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu cũng chưa được cụ thể hóa từ Trung ương đến địa phương.

Đối với di sản văn hóa thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, các tiêu chí về nhận diện, quy trình, thủ tục lập hồ sơ đưa vào các Danh mục di sản tư liệu cấp tỉnh và quốc gia còn chưa được xây dựng cụ thể; quy trình thực hiện còn chưa thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan liên quan.

Giám đốc Sở VHTT tỉnh Thừa Thiên Huế Phan Thanh Hải, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia cho biết, Huế có 3 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh là Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Thơ văn trên Kiến trúc Cung đình Huế. Đây đều là những di sản có giá trị nổi bật với nội dung đa dạng, hình thức độc đáo, tính duy nhất không thể thay thế và sức ảnh hưởng sâu rộng. “Vì vậy, Thừa Thiên Huế luôn ý thức sâu sắc hệ thống di sản tư liệu là tài sản vô giá của các thế hệ tiền nhân để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau, có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống lịch sử văn hóa, là phương tiện để quảng bá về hình ảnh địa phương cho du khách trong và ngoài nước, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội”, theo ông Phan Thanh Hải.

Thừa Thiên Huế cũng chia sẻ những kinh nghiệm nhằm quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu. Theo đó, bên cạnh việc đẩy mạnh công tác nghiên cứu, hợp tác làm nổi bật giá trị, sự đa dạng của di sản tư liệu và đưa những giá trị đó đến cộng đồng, Huế dựng phim, phóng sự giới thiệu, quảng bá về giá trị độc đáo của di sản tư liệu trên truyền hình; tổ chức trưng bày, triển lãm hệ thống di sản tư liệu; tổ chức biên soạn, xuất bản ấn phẩm về di sản tư liệu; tổ chức sử dụng và giới thiệu di sản tư liệu tại các lễ hội, hội nghị, hội thảo… và phục vụ phát triển du lịch.

Lấp “khoảng trống”

Để có thể nhận diện các giá trị và lập danh mục di sản tốt hơn, ông Phan Thanh Hải kiến nghị bổ sung thông tin về Di sản tư liệu vào Luật Di sản văn hóa sửa đổi trong thời gian tới. Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ VHTTDL triển khai kế hoạch nghiên cứu, soạn thảo và ban hành Thông tư quy định việc kiểm kê di sản tư liệu và lập hồ sơ khoa học di sản tư liệu để đưa vào Danh mục Di sản tư liệu quốc gia…

“Kế hoạch bảo tồn di sản tư liệu phù hợp không chỉ giúp giữ gìn được giá trị di sản độc đáo này mà còn đưa di sản đó đến với cộng đồng trong cuộc sống đương đại, góp phần nâng cao hình ảnh đối với bạn bè quốc tế. Đồng thời, di sản tư liệu sau khi được vinh danh đã trở thành nguồn lực có giá trị vô cùng to lớn để khai thác, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong chặng đường trước mắt và tương lai lâu dài, di sản văn hóa Huế nói chung và di sản tư liệu nói riêng chắc chắn vẫn sẽ là nền tảng, hạt nhân cho sự phát triển toàn diện, bền vững của Cố đô Huế…”, ông Hải nhấn mạnh.

TS Vũ Thị Minh Hương, Phó Chủ tịch Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhận định, thực tiễn hiện nay cho thấy có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã khiến con người lãng quên hoặc chưa quan tâm đúng mức đến một loại hình di sản văn hóa đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là di sản tư liệu. Theo bà Hương, việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý đối với việc quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu là vô cùng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nội dung này cần được quy định cụ thể trong Luật sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn liên quan.

Kiến nghị của đại diện Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng nêu rõ, cần triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện một số dự án, đề án mang tính tổng thể, chiến lược, khoa học liên quan đến công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản tư liệu, đặc biệt đối với các di sản tư liệu đã được UNESCO ghi danh. Trong đó, việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật nhằm kéo dài tuổi thọ của tài liệu lưu trữ có nguy cơ hư hỏng là việc cần được quan tâm.

Góp ý từ thực tiễn để đề nghị bổ sung lĩnh vực di sản tư liệu vào Luật Di sản văn hóa sửa đổi, PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường, Viện Nghiên cứu Hán Nôm nêu, nhìn vào các loại hình di sản tư liệu Việt Nam hiện còn, chúng ta có thể thấy độ phong phú đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, nguồn di sản tư liệu dù phong phú đến mức nào, nhưng nếu không được quản lý tốt thì sẽ sớm dẫn đến hư hại, mất mát, đó chính là “sự kiệt quệ có hại” theo quan niệm đã dẫn của UNESCO. “Không ít bia đá đang phơi mình dưới phong sương, nhiều kho mộc bản còn chưa được bảo quản tốt, nguồn thư tịch cổ chưa được đầu tư đúng mức sẽ dẫn đến hư hại, đó là còn chưa kể đến sự thất thoát thư tịch cổ Việt Nam ra nước ngoài. Bên cạnh đó, nhiều chủ nhân các kho tư liệu hiện nay còn chưa ý thức hết được trách nhiệm của mình đối với các khối tư liệu mà mình sở hữu… Chưa thể nói là chúng ta đã quản lý thật tốt nguồn di sản tư liệu hiện có trên lãnh thổ quốc gia”, PGS.TS Nguyễn Tuấn Cường nhấn mạnh.

Ông nêu, sự phong phú của các tư liệu ở Việt Nam, bên cạnh đó là những nguy cơ dẫn đến hư hại, mất mát của tư liệu, cùng với sự thành công của UNESCO trong việc ghi danh các hạng mục di sản tư liệu thế giới là những điểm tham chiếu từ thực tiễn sống động ở Việt Nam để chúng ta có thể đề nghị nên và cần phải bổ sung những nội dung liên quan đến di sản tư liệu vào nội dung Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). “Không thể chờ đợi lâu thêm nữa, nhà nước nên có những quy định về các hoạt động và phát huy giá trị di sản tư liệu; xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản tư liệu ở nước ta. Các điều khoản được luật định sẽ trở thành căn cứ vững chắc để giúp quản lý tốt nguồn di sản tư liệu vốn rất phong phú và cũng không kém phần phức tạp ở Việt Nam…”, theo PGS. TS Nguyễn Tuấn Cường. 

 BẢO NGÂN

Ý kiến bạn đọc